Hạ tầng công nghệ
Hạ tầng công nghệ giữ vai trò quan trọng trong chính phủ điện tử
Hạ tầng công nghệ giữ một vai trò quan trọng trong việc áp dụng và phát triển CPĐT. Hạ tầng công nghệ bao gồm: CNTT-TT, công nghệ Internet, công nghệ điện tử (CNĐT), tiêu chuẩn công nghệ.
-
CNTT và công nghệ viễn thông (CNVT): CPĐT là hệ quả tất yếu của sự phát triển của CNTT và CNVT. Hạ tầng CNTT và hạ tầng cơ sở CNVT là hai điều kiện tiên quyết để thực hiện CPĐT. Hạ tầng CNTT bao gồm phần cứng, phần mềm, các dịch vụ để áp dụng và phát triển CPĐT nhằm mạng lại hiệu quả kinh tế. Hạ tầng CNVT đòi hỏi công nghệ cao, dung lượng lớn, băn thông rộng, liên kết các mạng viễn thông quốc gia, kết nối trực tiếp với đường truyền quốc tế với nhiều loại hình dịch vụ viễn thông với chất lượng đường truyền cao và giá thành hợp lý.
-
Công nghệ Internet: Internet được xem là hết sức quan trọng trong tổng thể chiến lược phát triển CPĐT. Cùng với hại tần CNTT và hạ tầng CNVT thì hạ tầng công nghệ Internet là một trong ba yếu tố cần thiết để áp dụng và phát triển CPĐT. Hạ tầng công nghệ Internet thúc đẩy quá trình tri thức tạo ra tri thưc, tạo cơ hội thành công trong canh tranh và đưa lại hiệu quả tôt cho các hoạt động hợp tác trao đổi.
Việt Nam đang có nhiều thuận lợi cho phát triển CPĐT: các quy định pháp lý liên quan đến hoạt động Internet và dịch vụ thông qua mạng Internet ở Việt Nam đang ngày một hoàn thiện. Ngày càng nhiều doanh nghiệp được cấp phép và đi vào kinh doanh dịch vụ Internet và cung cấp đường truyền Internet. Ngày càng có nhiều thông tin và dịch vụ bằng tiếng việt được đưa lên mạng Internet. Nhiều công nghệ mới cho phép Internet đạt tốc độ cao và cho phép truyền tải các dịch vụ với nội dung vô cùng phong phú, đa dạng.
Tuy nhiên, chất lượng dịch vụ chưa cao, nội dung thông tin tiếng việt còn nghèo nàn; giá cước truy cập Internet tuy bằng hoặc thấp hơn một số nước trong khu vực nhưng vẫn là cao so với thu nhập của người dân Việt Nam; việc quản lý sử dụng Internet còn nhiều bất cập.
Để phát triển Internet bên canh việc xây dựng cơ sở hạ tầng Internet hiện đại phải nhanh chóng phổ cập Internet cơ bản, cách thức sử dụng Internet cụ thể và thiết thực cho việc tìm kiếm, thu thập thông tin bổ trợ cho việc học tập, kinh doanh, chăm lo sức khoẻ và khai thác được tài nguyên tri thức trên Internet của cả thế giới với chi phí thấp nhất. Truy cập Internet tốc độ cao và cả Internet di động sẽ được tăng tốc độ truy cập trong thời gian tới.
-
Tiêu chuẩn công nghệ: Muốn hội nhập được với thế giới, một mặt cần xây dựng các chuẩn quốc gia, mặt khác cần thừa nhận và áp dụng các chuẩn của thế giới. Muốn áp dụng và phát triển CPĐT cũng vậy, cần tuân thủ các chuẩn trong việc thanh toán, vận chuyển, hải quan, tài chính, trao đổi dữ liệu điện tử, trong khu vực toàn cầu.
-
Công nghệ điện tử (CNĐT): Hạ tầng CNĐT giúp cho việc chủ động sản xuất các linh kiện, phụ kiện và thiết bị cần thiết cho CNTT, viễn thông, Internet.
Mô hình chính phủ điện tử
Cơ sở hạ tầng nhân lực
Các thành viên tham gia CPĐT cần có kiến thức và kỹ năng sử dụng máy tính và sử dụng mạng. Họ phải có những hiểu biết cần thiết về các luật: giao dịch điện tử, thanh toán điện tử, kinh tế thương mại và ngoại ngữ. Phải xây dựng đội ngũ chuyên gia, tiếp cận, hiểu biết và phát triển những công nghệ tiên tiến trên thế giới.
Chuyên gia CNTT
Nguồn nhân lực - một trong những yếu tố chính để phát triển CPĐT vẫn là vấn đề khó khăn, không chỉ thiếu số lượng mà còn hạn chế về mặt chất lượng. Kiến thức của hầu hết sinh viên CNTT ra trường đều thiếu, từ kỹ năng làm việc nhóm, tiếp cận quy trình chất lượng và nhất là trình độ ngoại ngữ. Cần phải quan tâm đến nguồn nhân lực và quan tâm hỗ trợ cho các doanh nghiệp nhỏ. Nhà nước đã và đang đầu tư, triển khai về dự án CNTT, tin học hoá quản lý hành chính nhà nước, tiến tới một nền hành chính điện tử, chú trọng, bồi dưỡng các kỹ sư CNTT trong các trường đại học, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tham gia vào quá trình thực hiện CPĐT.
Người tiêu dùng
Số lượng người tiêu dùng quyết định thành bại của sản phẩm hay dịch vụ. Muốn thực hiện và phát triển CPĐT thì đông đảo người dân phải hiểu biết và sử dụng được dịch vụ Internet. Hơn nữa, vẫn còn khoảng cách giữa việc sử dụng máy tính với việc khai thác các ứng dụng của Internet. Nhiều cơ quan, xí nghiệp, phần lớn cán bộ, nhân viên chưa từng dùng máy tính, những người được coi là biết sử dụng máy trên thực tế mới chỉ có thể soạn thảo được văn bản ở trình độ thấp, chưa nói tới việc ứng dụng CNTT vào mục đích quản lý kinh doanh.
Một số cơ quan đã kết nối với Internet nhưng hiệu quả sử dụng còn kém, một phần do chưa có kỹ năng sử dụng Internet, một phần do trình độ tiếng Anh còn hạn chế.
Cơ sơ hạ tầng kinh tế xã hội
CPĐT cần một hạ tầng kinh tế xã hội phát triển một cách đồng bộ. Trong đó các vấn đề quan trọng cần lưu ý giải quyết là:
- Mức sống của người dân: mức sống thấp không cho phép đông đảo dân cư tiếp xúc với các phương thức của “kinh tế số hóa”. Nếu chi phí cho một máy tính cá nhân, thiết bị phù trợ, thuê bao Internet, phí truy cập… quá lớn so với mức thu nhập bình quân của một người dân thì lượng người truy cập Internet sẽ ít. CPĐT không thể phát triển trong điều kiện số người dân có khả năng truy cập Internet thấp.
- Hệ thống thanh toán tài chính tự động: Ở Việt Nam, việc thanh toán tài chính tự động được triển khai ở mức thấp. Trong khi CPĐT đòi hỏi mạng lưới thanh toán tự động hoàn chỉnh và chính xác, nhưng chúng mới chỉ đáp ứng được một phần của những yêu cầu tốii thiểu. Thẻ thanh toán điện tử chưa được sử dụng rộng rãi do người dân có thói quen sử dụng tiền mặt. Chừng nào mà chúng ta chưa hình thành hệ thống thanh toán tự động, chừng đó tính khả thi của CPĐT cũng như của thương mại điện tử còn nhiều hạn chế.
- Năng suất lao động: Nền kinh tế Internet đòi hỏi một nền sản xuất có năng xuất cao. Tại Việt Nam năng suất lao động còn thấp, cách tổ chức công việc còn thiếu khoa học, còn có người thất nghiệp nên chưa tạo động lực thúc đẩy tiết kiệm cao đọ chi phí vật chất và thời gian, là những mục tiêu căn bản và lưọi ích thiết thực mà CPĐT mạng lại.
Cơ sở hệ thống chính sách - pháp luật
Do Internet là một lĩnh vực khả mới mẻ ở Việt Nam nên hiện nay hệ thống pháp luật của chúng ta chưa đáp ứng được yêu cầu của CPĐT. Chúng ta đã cố gắng ban hành một số luật như luật giao dịch điện tử, luật CNTT, luật sở hữu trí tuệ. Hàng loạt vấn đề bảo hộ quyền sở hữu, tính bảo mật của thông tin giao dịch trên Internet, chế tài với hành vi gian lận, vi phạm hợp đồng, phương thức tính thuế đối với các giao dịch điện tử,… chưa được cụ thể hóa trong các văn bản pháp luật liên quan.
Vấn đề pháp lý nhà nước, chính phủ cần phải quan tâm khi ứng dụng CPĐT là vấn đề liên quan đến bản quyền tác giả và xâm phạm tác quyền phần mềm. Như vậy, CPĐT là chủ đề cần quan tâm đến không chỉ trên phương diện kinh tế, kỹ thuật, luật pháp mà các vấn đề pháp lý, chính sách lên quan đến bản quyền, văn hóa xã hội cũng phải được xem xét. Cơ sở pháp lý đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ ứng dụng CPĐT thành công. Một số nhân tố pháp lý trong CPĐT luôn được nhắc tới:
- Tính riêng tư: trở thanh vấn đề quan trọng cho các khách hàng hiện nay. Các điều khoản bảo vệ tính riêng tư được thể hiện ở rất nhiều trang web CPĐT lớn. Có những vấn đề trên cơ sở pháp luật là không đúng đắn nhưng trong xã hội những hành vi đó có thể chấp nhận được và không vi phạm phạm trù đạo đức truyền thống.
- Bản quyền: bảo vệ bản quyền tác giả trên trang web gặp nhiều khó khăn vì thông tin số hoá có thể sao chép dẽ dàng với mức chi phí thấp. Hơn nữa, vấn đề khó khăn là quá trình kiểm soat ai là người có quyền sử dụng bản quyền.
- Tự do truy nhập thông tin: Internet cung cấp cơ hội lớn trong việc cung cấp thông tin cho các đối tượng sử dụng. Tuy nhiên, sự tự do này có thể ảnh hưởng tiêu cực cho xã hội vì ranh giới giữa các vấn đề bất hợp pháp cũng như thiêud đạo đức trên Internet lúc nào cũng rõ ràng.
Luật giao dịch điện tử: đã được quốc hội thông qua ngày 19/11/2005 và có hiệu lực từ ngày 1/3/2006. Luật gồm 8 chương, 54 điều quy định về thông điệp điện tử; chữ ký điện tử và chứng thực chữ ký điện tử; giao kế và thực hiện hợp đồng điện tử; giao dịch điện tử của cơ quan nhà nước; an ninh, an toàn, bảo vệ, bảo mật trong giao dịch điện tử; giải quyết tranh cấp và xử lý vi phạm trong giao dịch điện tử,… Phạm vi điều chỉnh chủ yếu là giao dịch điện tử trong hoạt động của cơ quan nhà nước, trong lĩnh vực dân sự, kinh doanh, thương mại.
Giao dịch điện tử
Công nhận và bảo vệ hợp đồng điện tử: Nguyên tắc tiến hành giao dịch điện tử được luạt nêu rõ. Lựa chọn giao dịch bằng phương tiện điện tử là tự nguyện của cơ quan, tổ chức, cá nhân, được tự thoả thuận về việc lựa chọn công nghệ để thực hiện giao dịch, không một công nghệ nào được xem là duy nhất trong giao dịch điện tử, đảm bảo bình đẳng và an toàn…
Luật công nhận và bảo vệ hợp đông điện tử: “giá trị của hợp đồng không thể bị phủ nhận chỉ vì hợp đồng đó được thể hiện dưới dạng thông điệp dữ liệu . Trong giao kết và thực hiện hợp đồng điện tử, thông báo dưới dạng thông điệp dữ liệu có giá trị pháp lý như thông báo bằng phương pháp truyền thông”.
Các bên tham gia hợp đồng điện tử có quyền tham gia thoả thuận sử dụng phương tiện điện tử trong giao kết hợp đông, có quyền thoả thuận về yêu cầu kỹ thuật, chứng thực, các điều kiện đảm bảo tính toàn vẹn, bảo mật liên quan đến hợp đồng điện tử đó. Việc giao kết thực hiện hợp đồng điện tử phải tuân theo quy định của luật này và pháp luật hợp đồng.
Khuyến khích cơ quan nhà nước giao dịch điện tử: Đẩy mạnh ứng dụng tin học vào quản lý hành chính, luật yêu cầu: “căn cứ vào yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và tình hình cụ thể, cơ quan nhà nước xác định một lộ trình hợp lý để sử dụng phương tiện điện tử trong hoạt động nội bộ, với cơ quan, tổ chức, cá nhân khác”.
Tổ chức, cá nhân có quyền lựa chọn phương thức giao dịch với cơ quan nhà nước, nếu cơ quan nhà nước đó chấp nhận giao dịch theo phương tiện truyền thông và phương tiện điện tử.
Khi tiến hành giao dịch điện tử, cơ quan nhà nước phải quy định cụ thể về: định dạng, biểu mẫu của thông điệp dữ liệu; loại chữ ký điện tử; các quy trình bảo đảm tính toàn vẹn, an toàn bí mật của giao dịch điện tử.
Cấm cản trở sử dụng giao dịch điện tử: Luật nghiêm cấm các hành vi cản trở việc lựa chọn sử dụng giao dịch điện tử, cản trở ngăn chặn trái phép quá trình chuyển gửi và nhận thông điệp dữ liệu; thay đổi, xoá, huỷ, giả mạo, sao chép, tiết lộ, hiển thị, di chuyển trái phép một phần hoặc toàn bộ thông điệp dữ liệu; tạo ra hoặc phát tán chương trình phần mềm (virus) làm rối loạn thay đổi, phả hoại hệ thống điều hành; tạo ra thông điệp dữ liệu nhằm thực hiện hành vi trái pháp luật; gian lận; mạo nhận; chiếm đoạt hoặc sử dụng trái phép chữ ký điệ tử của người khác,…
Tổ chức, cá nhân không được sử dụng, cung cấp hoặc tiết lộ thông tin về bí mật đời tư hoặc thông tin cơ quan, tổ chức, cá nhân khác mà mình tiếp cận hoặc kiểm soat s được trong giao dịch điện tử nếu không được sự đồng ý của họ, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Theo luật giao dịch điện tử, nhà nước công nhận giá trị pháp lý chữ ký điện tử và chứng thư điện tử nước ngoài nếu chũ ký hoặc chứng thư điện tử đó có độ tin cây tương đương cới độ tin cập của chữ ký và chứng thư điện tử theo quy định của pháp luật. Việc xác định mức độ tin cậy của chữ ký điện tử và chứng thư điện tử nước ngoài phải căn cứ vào các tiêu chuẩn quốc tế đã được thừa nhận, điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên và các quy định liên quan khác.
Cơ sở an toàn và bảo mật
Khi tham gia vào Internet, vấn đề đặt ra là phải tăng cường các biện pháp an tòan bảo mật. An toàn luôn được coi là vấn đề chủ yếu trong thực hiện CPĐT. Theo hiệp hội an toàn máy tính quốc gia NCSA (National Computer Security Association) vấn đề an toàn CPĐT gồm các khía cạnh:
- Tính xác thực: Trong giao thức TCP/IP, phương tiện để nhận diện một người sử dụng là mật mã. Các địa chỉ IP có thể được lọc để phát hiện truy nhập trái phép, nhưng không thể nhận dạng khi một gói tin thực sự được gửi từ một miền nhất định. Thông qua công nghệ gọi là sảo thuật IP, kẻ đột nhập có thể gửi một mẩu tin đến từ một miền xác định nào đó, trong khi mẩu tin đó không có thật, hoặc kẻ đột nhập có thể thay thế một tên miền trên một trang web và như vậy các lần truy nhập sau đó người dùng truy nhập với nội dung khác mà chúng đã thay đổi.
- Tính riêng tư: Các hành vi vi phạm tính riêng tư có thể xuất hiên trong và sau khi chuyển giao thông tin. Khi một mẩu tin được nhận, người gửi phải đảm bảo rằng nội dung của mẩu tin đó hoàn toàn bí mật. Ở đây thuật ngữ “nội dung” được hiểu theo nghĩa rộng nhất. Ví dụ một người truy cập vào một tràn web, thì giao dịch được ghi lại. Bản ghi lại các thông tin ngày tháng, thời gian, địa chỉ của người sử dụng và tên miên của của trang trước mà người sử dụng vừa truy nhập. Nếu người sử dụng đang truy cập vào trang web thông qua nhà cung cấp dịch vụ Internet (ISP) thì nhà cung cấp dịch vụ Internet có thể giữ mọ trang mà người sử dụng vừa truy cập. Với cùng đặc điểm đó, nhiều trang web thương mại sử dụng tính năng lưu dấu vết để lưu lại thông tin của người sử dụng (mặc dù hầu hết các trường hợp, việc lưu dấu vết đựơc sử dụng hợp pháp). Tuy nhiên nhiều nhà quảng cáo đã sử dụng tính năng lưu dấu vết vô nguyên tắc để theo dõi các thói quen của người sử dụng. Sự đe dọa lớn nhất đối với tính riên tư không phải là các thông tin được lấy từ sự lừa lọc mà từ sự thoả hiệp trong việc tự do cung cấp thông tin của người sử dụng.
- Tính trung thực: TCP/IP có vai trò truyền các gói dữ liệu trong văn bản thuần tuý. Vì các goid tin liên quan đến một mẩu tin cụ thể thường được truyền khi chúng đi từ trạm đến máy chủ và ngược lại, do đó chúng rất dễbị nắm bắt và mô phỏng trong quá trình di chuyển. Ví dụ kẻ đột nhập có thể mô phỏng địa chỉ mà ở đó các nội dung của trang web sẽ được đệ trình. Người sử dụng điền đầy đủ thông tin về thẻ tín dụng của họ vào một mẩu khai báo và gửi đi mà không biết rằng thông tin đó sẽ được chuyển sang máy chủ của kẻ đột nhập.